Hình 1- Màn hình chuẩn đoán chung
Các màn hình chuẩn đoán lỗi cho phép truy cập trực tiếp tới toàn bộ các hệ thống con được điều khiển bởi các hệ thống điều khiển tại chỗ LCS (Local Control System). Ở phía trên màn hình, sơ đồ cấu trúc cơ bản sẽ được thể hiện với các máy chủ, HMI, và các màn hình video. Phía bên dưới, các hệ thống con được hiển thị theo sơ đồ hình cây.Hình 3- Thanh công cụ bên dưới màn hình chính, có các biểu tượng và nút nhấn kết nối với hệ thống báo khói
Hình 4- Chuyển đổi các màn hình sơ đồ điện
Hình 5-Màn hình hiển thị hệ thống trung áp và thấp áp trong mạng lưới điện
Trên màn hình này, người vận hành có thể quan sát thấy máy cắt màu xanh khi mở, mầu đỏ khi đóng, chặn thao tá, xuất, hoặc hư hỏng, cho phép các thiết bị chấp hành thực hie các lệnh đóng/mở. Các trình tự tương tự sẽ được áp dụng cho các thiết bị đóng/cắt (dao cách ly hay contactor). Các giá trị đo lường được đo bởi các biến điện áp, các bộ chỉnh lưu diode và các biến tần cũng được hệ thống giám sát, các thanh cái (cáp kết nối) giữa các thiết bị sẽ được thể hiện bằng màu sắc (xanh lá cây=không mang điện, mầu đỏ= điện áp cao). Để xem chi tiết, chỉ cần nhấp chuột lên ảnh đại diện của đổi tượng, thông tin sẽ hiển thị như hình dưới.Hình 6-Màn hình hiển thị các thông số đo lường của một bộ chỉnh lưu diode
Hình 7-Giao diện giám sát điều hòa không khí
Hình 8-Giám sát nước sử dụng và các bơm.
Hình 9-Phát hiện báo cháy tại tầng lửng (màu đỏ) và sự cố (màu vàng)
Hình 10-Màn hình giám sát tình trạng trụ cứu hóa trong tình trạng cảnh báo
Hình 11-Giao diện giám sát sảnh phòng vé
Hình 12-Giao diện kết nối các camera giám sát
Hình 13-Giao diện in báo cáo
Hình 1- Màn hình chính của hệ thống
Hình 2- Màn hình hiển thị tín hiệu theo ma trận nhận
Với phần mềm này, cũng cho phép giám sát cường độ tín hiệu nhận được tại SRTC, và đánh giá nó có thể được sử dụng trong việc truyền dẫn. Đối với kỹ sư các dự án truyền dẫn của TV Globo Rio, Luis Fernando de Oliveira Loureiro, các màn hình thận thiện, dễ đọc là các đặc trưng có thể nhận ra.của E3. “Phần mềm hiển thị với một giao diện được tổ chức tốt, với các đối tượng làm cho việc bao quát quá trình dễ dàng hơn”, ông nói. Cuối cùng, E3 đã giúp tự động hóa việc thu nhập các tín hiệu báo chí được gửi từ các văn phòng ở London (Anh) và New York (Mỹ), mang lại chất lượng và hiệu quả hơn cho SRTC. “Không có E3, các điều này không thể thực hiện được, và nó rất quan trọng trong dự án của chúng tôi”, Loureiro nói.Hình 3-Chuỗi truyền tín hiệu của TV Globo Rio
Thỏa mãn với giải pháp này, TV Globo Rio sử dụng Elipse Software và ADKL để thực hiện các chức năng mới. “Ý tưởng sử dụng E3 để tự động hóa các thiết bị di động phát các tín hiệu, Vì thế nó sẽ giúp ích cho các đội hiện trường tập trung nâng cao chất lượng các thông tin báo chí. Các tín hiệu được điều khiển bằng các máy tính tại phòng thử”, kỹ sư này nói.Hình 1-Tổng quan nhà máy
Mỗi công nghệ được sử dụng khi tạo ra ba module gồm các bảng PV khác nhau tại nhà máy. Khoảng 30 triệu Real Brazil (R$ 30) (khoảng 11 triệu đô la Mỹ) đã được đầu tư bởi Tractebel Energia (nhà máy điện thuộc khu vực tư nhân lớn nhất ở Brazil), khi xây dựng CAPP, với công suất phát điện lên tới 3MWp (triệu Watt đỉnh) trong những ngày nắng gay gắt. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng để có thể tin tưởng một công cụ có thể điều khiển từ xa các đại lượng điện khác nhau và các thiết bị có liên quan tới việc phát quang điện. Do mục đích đó, Tractebel Energia đã quyết định sử dụng Elipse E3, đây là một giải pháp được phát triển bởi Elipse Software, và được chỉ định và thực hiện bởi công ty Vieira-Ishikawa Software. “Chúng tôi đã quyết định chọn Elipse E3 bởi vì phần mềm này được Vieira-Ishakawa giới thiệu, và chúng tôi cũng đã có kinh nghiệm tốt khi sử dụng công nghệ này trong những nhà máy khác mà chúng tôi đã triển khai.” Jefferson Silva de Oliveira, giám đốc nhà máy của Tractebel trả lời khi được hỏi tại sao công ty lại lựa chọn giải pháp phần mềm này.Hình 2-Kiến trúc của mạng lưới tự động hoá của nhà máy
Hình 4-Màn hình sơ đồ nối điện của nhà máy
Trên màn hình này, cũng biểu diễn thông tin của các tủ điện phân phối, mỗi tủ được hết hợp với một trong ba công nghệ có sẵn. Ở phần dưới và các màn hình khác của hệ thống, người vận hành truy cập tới các giá trị năng lượng đã được tạo ra bởi mỗi module quang điện, cũng như toàn bộ năng lượng do CAPP tạo ra. Do đó, chúng ta có thể kiểm tra và so sánh hiệu quả của ba công nghệ, cũng như của toàn bộ nhà máy. Hình 5-Màn hình thể hiện ba mô đun tấm quang điện, cũng như các mức năng lượng và nhiệt độ của chúng Ngoài các thông tin trên, phần mềm cũng cung cấp các giao diện khác với các thông tin chi tiết hơn về sự hoạt động của mỗi công nghệ. Ở hình trên, hiển thị ba module của nhà máy, khi người vận hành nhấp chuột (click) lên một trong số chúng, một màn hình mới sẽ hiện lên với thông tin riêng của module đó. Trên màn hình hiển thị ra, người vận hành có thể giám sát năng lượng tạo ra bởi công nghệ được sử dụng trong module đó với các bộ biến tần có công suất khác nhau: 500kW, 165kW, 55kW và 10kW. Từ đó, họ có thể đánh giá không chỉ hiệu quả công nghệ của module, mà còn thấy nó hoạt động thế nào với các loại biến tần khác nhau được sử dụng.Hình 6-Màn hình hiển thị năng lượng được tạo ra bởi các tấm Polycrystalline Silicon (p-Si) với ba bộ biến tần khác nhau,10, 165 và 500kW
Ngoài ra, Elipse E3 cung cấp một màn hình khác hiển thị tất cả các giá trị của tần số, điện áp, dòng điện và các thông số có khả năng đo được của mỗi bộ biến tần có trong các module quang điện. Phần mềm cũng giúp người sử dụng giám sát chi tiết riêng của từng bộ biến tần.Hình 7-Các bộ biến tần được ghép với các tấm p-Si
Để thêm thông tin của một trong 22 bộ biến tần minh hoạ ở trên, người dùng chỉ cần nhấp chuột (click) lên biểu tượng một bộ mà họ muốn theo dõi chi tiết. Sau khi chọn, một màn hình mới sẽ hiện lên không chỉ thông tin về biến tần mà cả chuổi tương ứng với các thông tin, một tập hợp các tấm quang điện kết nối nối tiếp cung cấp tới biến tần để chuyển đổi năng lượng được phát ra bởi các tấm quang điên thành xoay chiều.Hình 8-Màn hình giám sát biến tần IP-23 với 10 string
Phần mềm Elipse E3 cũng cung cấp tính năng về lịch sử cảnh báo. Với phần này, người dùng có thể kiểm tra tất các các cảnh báo trong một khoảng thời gian với thông tin chi tiết có liên quan tới bất kì loại lỗi nào trong nhà máy. Trong trường hợp có một vấn đề, sự cố đó sẽ được tô màu đỏ trong giao diện màn hình E3 như hình bên dưới.Hình 9-Lịch sử các cảnh báo
Khi khu vực có cảnh báo được chỉ ra, người dùng sẽ chỉ phải nhấp chuột vào khu vực đó và đi tới các màn hình cho tới khi tìm được nguồn gốc của sự việc, để phân tích và sửa lỗi sớm nhất có thể. Ngoài ra, hệ thống sẽ tạo ra các báo cáo bằng đồ thị mà nhờ nó, người vận hành có thể xem và đánh giá tốt khả năng phát điện của ba công nghệ và của toàn nhà máy trong bất cứ thời gian nào.Hình 10-Năng lượng dược phát ra bởi nhà máy từ 2AM 11/18/2014 to 10PM 11/19/2014
Hình 1-Màn hình giám sát-điều của ứng dụng
Thiết bị trong trạm có thể được điều khiển toàn bộ thông qua các màn hình E3. Các màn hình điều khiển không chỉ hiển thị đầy đủ các điều kiện vận hành hiện tại của các máy cắt, cầu dao phụ tải, cũng như khả năng thiết lập các lệnh mở và đóng cho các thiết bị này nhanh chóng và an toàn. Để làm điều này, chỉ cần click chuột vào biểu tượng của thiết bị trên màn hình chính của hệ thống và thực hiện hành động mong muốn. Trên cùng màn hình, phía dưới cùng, người vận hành có thể truy cập vào thời gian, ngày, mô tả và tên của người xác nhận các sự cố xuất hiện tại bất kì điểm nào của thiết bị trạm.Hình 2-Màn hình điều khiển của máy cắt 24-1
Các máy biến áp cũng được theo dõi bởi E3. Việc giám sát đầy đủ của tất các các thành phần của máy biến áp, có thể cung cấp các dữ liệu như nhiệt độ cuộn dây, mức dầu cách điện. Trạng thái của các máy cắt trong thiết bị đóng cắt trung thế, đây là các thiết bị cho phép truyền năng lượng từ máy phát điện tới trạm và từ đó tới trạm của Cemig, cũng được giám sát thông qua màn hình của phần mềm. Để tăng cường cho việc kiểm soát, E3 cũng cho phép người vận hành tạo ra hai báo cáo dạng PDF liên quan tới các cảnh báo và các sự kiện. Với các báo cáo này, chúng ta có thể thấy các thông tin: ngày, giờ, mô tả, và tên của người dùng đã xác nhận sự cố (báo cáo các cảnh báo) hoặc người đã thực hiện bất kì hoạt động nào đối với một trong các thiết bị của trạm (báo cáo các sự kiện). Phần mềm cũng cho phép lựa chọn khoảng thời gian được theo dõi và cuối cùng in ra các báo cáo.Hình 3-Màn hình hiển thị các báo cáo và sự kiện
Ngoài các báo cáo, E3 còn cho phép người vận hành giám sát theo dạng biểu đồ đối với điện áp, công suất và dòng điện của các mức năng lượng đi qua trạm. Cần nên chú ý rằng, người vận hành có thể truy cập tới các màn hình từ E3 thông qua hai giao diện điều khiển, một giao diện đặt ngay cạnh trạm và một cái khác đặt cách trạm 500m. “Nhờ có E3, không còn cần phải đi tới sân của trạm để thực hiện bất kì thao tác nào hoặc để thu thập chuẩn đoán của cảnh báo/sự cố” Eduardo Chinelato, người chịu trách nhiệm cho dự án AFAP, trao đổi.Hình 4-Biểu đồ xu hướng
Hình 1-Bảng từ được sử dụng để giám sát hệ thống điện của đường sắt trước đây
Với những miếng nam châm, cách điều khiển được thực hiện như sau: khi có vấn đề xảy ra trong hệ thống, người vận hành ở gần trạm sẽ gọi điện tới người điều khiển phụ trách. Từ Trung tâm điều khiển nguồn (Power Control Center-PCC), người điều khiển sẽ vẫn thông qua điện thoại, hướng dẫn người vận hành ở hiện trường cách thức xử lý cho sự cố này. Điều này có nghĩa là người vận hành là người điều khiển thực sự sử lý các cảnh báo và vấn đề trong hệ thống. Đối với những người điều khiển hệ thống, họ không những phải chấp nhận một cách mù mờ những phân tích do người vận hành cung cấp, mà còn phải tin tưởng các lệnh của mình được họ thực hiện chính xác. Để thay đổi tình hình này, SuperVia, với sự giúp đỡ của ADKL Zeller Eletro Sistemas LTDA, đã triển khai phần mềm E3, hệ thống giám sát điều khiển và thu thập dữ liệu (Supervisory Control and Data Acquisition-SCADA) được phát triển bởi Elipse Software. Mục tiêu của họ là lắp đặt một giải pháp có thể giám sát, một cách tự động hoàn toàn, hệ thống điện của hệ thống tàu ở Rio de Janeiro. Nói cách khác, hệ thống cần một gói phần mềm có thể bảo đảm đáp ứng an toàn hơn, nhanh trong mọi tình huống sự cố xảy ra. Nói chung, SuperVia giờ đây làm việc với các loại bản quyền của phần mềm E3: một máy chủ (E3 Quan sát và điều khiển-E3 Viewer Control) và hai máy khách (E3 chỉ quan sát-E3 Viewer Only), tất cả chúng được lắp đặt tại trung tâm điều khiển nguồn-PCC của Công ty.Hình 2-Bảng theo dõi toa xe, bước đầu tiên hướng tới tự động hoá
Với bảng điều khiển mới này, những người điều khiển có thể kiểm tra toàn bộ hệ thống điện của đường sắt từ bàn làm việc của họ, giám sát chặt chẽ mỗi trạng thái của trạm mà không cần gọi điện cho những người vận hành hoặc đích thân đi tới nơi xảy ra sự kiện. Do đó, họ có thể giám sát trạng thái của toàn bộ hệ thống mà không cần thông tin đầu vào từ những người vận hành. Tuy nhiên, những hành động quan trọng khi hiển thị hệ thống trong trường hợp này: ngoài bảng điều khiển mới, SuperVia còn có bốn máy tính được kết nối với nhau. Một trong số chúng hoạt động như máy chủ hệ thống, với bản quyền E3 Server và E3 Viewer Control, do đó làm người vận hành có khả năng thực thi các lệnh từ bất kỳ máy nào nêu trên, bởi tất cả đều chạy cùng một ứng dụng.Hình 3-Trước và sau: sự ra đi của điều khiển bằng tay, thời đại điện tử xuất hiện
Việc lắp đặt hệ thống giám sát-điều khiển trạm điện của đường sắt được thực hiện theo thứ tự, ví dụ, một trạm một lần. Để điều khiển mỗi một trạm trong số các trạm này, một cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh được yêu cầu sẵn sàng với các khoảng cách dài giữa các điểm này, có thể sử dụng các bộ chuyển đổi cáp quang, sóng radio không dây, hoặc kết hợp giữa các dạng khác.Hình 5-Màn hình hiển thị một cầu dao phân tải tại trạm Bangu ở Rio de Janeiro
Trong số các chức năng có trong phần mềm, Winter cũng chỉ ra tính động liên quan đến các đáp ứng nhanh hơn. “Giả sử một máy cắt bị mất tác dụng. Nếu các trạm vẫn sử dụng hệ thống cũ, máy cắt sẽ chỉ hoạt động tác dụng trở lại sau khi người vận hành và bộ điều khiển trao đổi thông tin. Với E3, bằng cách khác, giao tiếp này là không cần thiết nữa, vì bộ điều khiển không chỉ nhìn thấy vấn đề mà còn giải quyết nó từ trạm trung tâm”, Winter cho biết. Theo Winter, trước khi ứng dụng phần mềm Elipse E3, khoảng 70 người vận hành bắt buộc phải làm việc trong các trạm để kiểm tra những trục trặc nhỏ nhất trong hệ thống, tình hình đó đã hoàn toàn thay đổi gần đây: bây giờ nó hoàn toàn tự động. “Thực tế, người điều khiển không thể nhìn thấy những gì đang xảy ra trên đường dây này trước khi sử dụng phần mềm. Bằng Elipse E3, các nhà điều khiển có thể nắm bắt lập tức tất cả các yếu tố trực quan trong hệ thống điều khiển, ví dụ, màu sắc trên bảng điều khiển: xanh lá cây là tắt, đỏ là mở. Điều này nghĩa là họ bây giờ nhận thấy rõ ràng hơn về những trạng thái của các đối tượng và tình trạng trong hệ thống so với trước đây”, ông này nói.Hình 6-Màn hình giám sát E3 trạm Dom Pedro II
Sau khi trang bị hệ thống mới, người điều khiển giờ có thể kiểm tra chi tiết bất kì sự kiện nào xảy ra trong quá khứ và nghiên cứu quá trình, sau đó lấy thông tin của một lỗi xuất hiện nhất định, để xác định nguyên nhân lỗi hoặc hiểu cách thức để xử lý trong tình huống này.Hình 1-Màn hình hệ thống giám sát cho tổ hợp phát điện UHE Jupiá
Hình 2-Nhà máy thủy điện Ilha Solteira
Hình 3-Nhà máy thủy điện Engenheiro Souza Dias (Jupiá)
Hình 4-Màn hình hiển thị ghi nhân nhiệt độ trong một tổ hợp phát điện của UHE Ilha Solteira
Để hiểu rõ hơn trong thực tế, cần thiết hình ảnh hóa từng tổ hợp phát điện ở mức độ sâu hơn. Mỗi tổ hợp bao gồm một PLC Altus Point và các cảm biến 56 PT100 (ở Ilha Solteira) hoặc NI100 (trong Jupiá), được lắp đặt dọc theo các thành phần chịu trách nhiệm trong việc phát điện (vòng bi, đồng và sắt của máy phát, hệ thống làm mát). Thông qua các cảm biến, các PLC đọc nhiệt độ đã được xác định vị trí tại các điểm cảm biến tích hợp trong máy phát. Sau đó, E3 giao tiếp với các PLC trong mạng và lưu trữ dữ liệu trong cơ sở dữ liệu của hệ thống dưới các định dạng khác nhau (lịch sử, báo cáo và biểu đồ). Để truy cập vào cơ sở dữ liệu, người dùng phải đăng nhập vào internet và nhập mật khẩu của họ. Hình 5-Màn hình hiển thị thời gian thực với đồ họa thay đổi theo nhiệt độ tại UHE Ilha Solteira Dữ liệu nhiệt độ được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu, E3 cho phép so sánh các dữ liệu quá khứ để kiểm tra và đưa ra phương án cân bằng các tổ hợp phát điện. Khả năng sao lưu của phần mềm dài khoảng một năm. Tuy nhiên, có một yêu cầu đối với hệ thống, người vận hành không chỉ được phép kiểm tra nhiệt độ, mà còn nhận được cảnh báo trong trường hợp nhiệt độ trở nên rất cao, có thể làm động cơ và các tổ hợp phát điện ngừng hoạt động. Để ngăn chặn điều này xảy ra, hệ thống âm thanh và hiển thị cảnh báo trong E3 sẽ kích hoạt bất cứ khi nào nhiệt độ đạt đến mức nghiêm trọng. Các dữ liệu quan trọng này giúp cho sự phát triển hệ thống trong tương lai Có hai cấp đánh giá mức độ quan trọng của hệ thống cảnh báo, tùy thuộc vào nhu cầu của từng nơi được theo dõi. Đối với cảm biến được lắp đặt trong các vòng bi, đây là các thiết bị có chức năng làm giảm ma sát giữa các bộ phận khác nhau của các máy phát điện, hệ thống có 2 mức (cấp độ) cảnh báo 1 và 2. Cấp độ đầu tiên chỉ ra cảnh báo, trong khi level 2 chỉ ra mối nguy hại, và nó sẽ dừng ngay lập tức các máy phát điện. Các cảnh báo của các cảm biến khác là cảnh báo ở mức độ 1, và nó chỉ hiển thị cảnh báo.Hình 6-Màn hình giám sát nhiệt độ trong các vòng bi
Hệ thống này cho phép người vận hành vô hiệu hóa tự động các cảm biến giám sát. Vô hiệu hóa khi có một sự thay đổi đột ngột về nhiệt độ được phát hiện trong một khoảng thời gian nhỏ hơn 5 giây (khoảng thời gian được xác định bởi CESP), hoặc khi xảy ra ngắn mạch hoặc bất kỳ sự cố nào được giám sát bởi một trong những bộ cảm biến được lắp đặt trong nhà máy. Các PLC sau khi phát hiện sự biến đổi bất thường này, sẽ ngưng hoạt động giám sát tại điểm báo sự cố, và E3 gửi thông báo tới những người vận hành, những người này sẽ tiến hành bảo trì tại điểm khả nghi. Vì vậy, việc cảnh báo sai được kích hoạt ở cảm biến điều không thể đươc phép.Hình 7-Màn hình giám sát nhiệt độ trong các cấu trúc bằng đồng và sắt của máy phát
E3 đã đạt được mục đích của đối với hệ thống này, cho phép người vận hành có được bản ghi đầy đủ các nhiệt độ của các tổ hợp phát điện ở nhà máy Ilha Solteira (6 tổ máy) và Jupiá (9 tổ máy) . Việc theo dõi được thực hiện nhờ vào truyền thông mạng của phần mềm với các PLC lắp trong các tổ hợp phát điện. Bây giờ, người vận hành có thể giám sát nhiệt độ từ 1 máy tính bất kì, miễn là họ có quyền truy cập vào hệ thống giám sát trên internet. Một lợi thế khác của E3 là cho người vận hành dựa vào lịch sử thu thập được để so sánh nhiệt độ từ mỗi tổ hợp, đây là lợi ích quan trọng giúp kiểm tra các điều kiện nhiệt độ trong nhà máy một cách toàn diện. THÔNG TIN KỸ THUẬT Khách hàng: Companhia Energética de São Paulo (CESP) Đơn vị tích hợp: Altus Sistemas de Informática S/A Gói phần mềm Elipse: Elipse E3 Số lượng license: 2 Nền tảng phần mềm: Windows XP Professional Số lượng thông tin: 10.000 Giao thức (I/O Driver): Alnet II in TCP-IPHình 1-Trung tâm điều hành sự phát điện Generation Operations Center
Tập đoàn năng lượng CPFL (CPFL Power Group) nắm giữ việc vận hành hành trong ngành điện Brazil gần một thế kỉ. Các công ty con của CPFL được dành riêng cho việc phân phối năng lượng, phát điện và kinh doanh điện. CPFL được đánh giá là công ty tư nhân lớn nhất trong ngành năng lượng Brazil, với 19 SHPCs và một nhà máy nhiệt điện, với tổng dung lượng được lắp đặt tương ứng 120 MW và 36 MW, tất cả chúng nằm trong bang São Paulo. Với vai trò và nhiệm vụ của mình, CPFL có một mạng lưới đối tác rộng lớn và luôn luôn tìm kiếm các đối tác tiềm năng ở Brazil và ngoài nước để đầu tư nguồn lực một cách hiệu quả và đầy đủ điều kiện. Một trong những đối tác của CPFL là Elipse Software, một công ty chuyên phát triển những giải pháp dành cho quản lý vận hành. Một giải pháp phần mềm đó là Elipse E3, phần mềm được áp dụng bởi CPFL để hỗ trợ các nhà điều hành trong các trung tâm điều hành phát điện (GOC) điều khiển tổ hợp 17 nhà máy thủy điện nhỏ, chúng là : Americana,Buritis, Pinhal, Chibarro, Capão Preto, Dourados, Eloy Chaves, Esmeril, Jaguari, São Joaquim, Lençóis, Monjolinho,Santana, Salto Grande, Socorro, Três Saltos và Gavião Peixoto. Tổng cộng có 16 bản sao Elipse E3 được mua, và mỗi trạm trong 17 trạm đã được cung cấp lắp đặt E3 Server của riêng.Hình 2- Màn hình ứng dụng tổng quan
HỒ CHỨA NƯỚC Sau khi truy cập vào hệ thống, phần mềm cung cấp cho người dùng các màn hình vận hành khác nhau. Đầu tiên, hệ thống cho phép vận hành viên giám sát hồ chứa nước, là nơi chặn nước sông, đó là nơi trữ nước điều khiển hướng tới đường dẫn, và sau đó đến các tuabin. Hồ chứa nằm gần hoặc trên các con đập của nhà máy thủy điện nhỏ (SHPC).Hình 3-Màn hình hiển thị thông tin nước đầu vào
Trước khi đi vào khoang, nước sông chảy qua quá trình lọc được thực hiện tại các ống cống. Quá trình này được thiế kế để ngăn các mảnh vụn có trong nước sông chui vào phá hủy roto của các tua bin máy phát, nếu xảy ra sẽ dẫn đến phá hủy toàn bộ sự vận hành nhà máy. Đối với các khoang phát điện, phần mềm Elipse E3 cho phép vận hành viên giám sát mức nước để có thể đảm bảo rằng lượng lượng phù hợp cho dải vận hành, kiểm tra bổ sung thêm tình trạng các cửa xả lũ mở hay đóng.Hình 4-Màn hình điêu khiển khoang phụ tải của SHPC
TURBINE Từ các khoang chứa, nước chảy vào tua bin, là thiết bị lam chuyển động máy phát điện có kết nối với lưới điện thông qua trạm biến áp. Một tua bin máy phát bao gồm các bộ phận: đường xoắn ốc, bộ tiền phần phối, phân phối và rotor. Lớp vỏ xoắn ốc là một cấu trúc hình con ốc bao quang bộ phận tiền phân phối, phân phối và rotor. Phần vỏ này được đấu với đường ống dẫn nước, kết nối với khoang tải với turbin ở phần đầu vào, và với phần tiền phân phối ở khu vực đầu ra. Phần mềm Elipse E3 sẽ tạo dựng hình hảnh về chiều cao thác nước trên phần vỏ xoắn ốc.Hình 5-Màn hình điều khiển Turbine
Bộ phận tiền phân phối chịu trách nhiệu tạo ra dòng nước chảy tới bộ phận phân phối. Bộ phận này gồm 18 tới 24 cánh quạt kiểu lưỡi dao cố định, tạo ra tính thủy động học tốc độ chậm, nó sẽ điều khiển dòng nước, tránh sự bất ổn của dòng chảy. Bộ phận này không chuyển động, và nó được hàn vào vỏ hình xoắn ốc. Bộ phận phân phối, là thiết bị điều khiển công suất của turbine bằng cách điều chỉnh dòng nước. Bộ phận này gồm 18 đến 24 cánh chuyển động, các cánh này di chuyển theo cơ chế thủy lực bên ngoài hộp xoắn ốc. Tất cả các lưỡi di chuyển đồng thời và cùng tốc độ, phần mềm E3 sẽ điều khiển sự chuyển động của các lưỡi dao này.Hình 6-Màn hình hiển thị % mở của lưỡi dao DCL
Từ bộ phận phân phát, các luồng nước chảy tới rotor, tại đây năng lượng của nước và năng lượng do trọng lực được chuyển hóa thành năng lượng cơ. Khi có sự chuyển đổi này, nước sẽ chảy tới ống dẫn đầu ra, các ống này có đường kính thường lớn hơn ống dẫn đầu vào, nó sẽ làm chậm luồng chảy của nước khi chảy qua turbine, và nước được trả lại về sông. Giai đoạn này của quá trình giống như các giai đoạn khác, cũng được giám sát thông qua các màn hình của phần mềm Elipse E3, cho phép điều khiển các cửa đầu ra của nhà máy thủy điện nhỏ.Hình 7- Màn hình hiển thị các cửa thoát lũ để nước quay trở lại sông.
Hình 9- Màn hình điều khiển thiết bị thủy lực
Hình 10-Màn hình điều khiển thiết bị phát điện
Hình 11-Màn hình thể hiện sơ đồ một sợi
elipse-e3-archives-page-3-of-4-safenergy-i-din-moxa-ti-vit-nam